Ký Ức Thanh Xuân ULIS

 


Ký Ức Thanh Xuân ULIS
(Quang Đặng – K30-Q, Giai đoạn I – Khoa Anh, ULIS)

Những ngày tháng Tám nồng nàn, tôi chợt thấy lòng mình như vừa bước lại hành lang giảng đường B4 năm xưa – trở về giữa trưa hè rực lửa, nơi tiếng ve ngân vang cùng nắng lấp lóa trên những bức tường sơn vàng đã sẫm màu thời gian. Trong ký ức dịu dàng ấy, hiện lên những gương mặt thân thương của bạn bè lớp K30-Q – mỗi ánh mắt, nụ cười đều khiến trái tim tôi rộn lên một khúc ca tuổi trẻ.

Thời ấy, cơ sở Phạm Văn Đồng của Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQGHN còn mộc mạc và bình dị. Chúng tôi đến lớp bằng xe đạp, vài chiếc xe máy “cà tàng” không mũ bảo hiểm – chỉ có gió sớm luồn qua tóc và ánh mặt trời lấp lánh niềm hy vọng. Con đường vào trường rợp bóng bạch đàn, bảng hiệu khiêm nhường đón mỗi bước chân sinh viên. Ẩn sau sự đơn sơ ấy là một sức sống tươi mới, là nơi ươm mầm bao thế hệ yêu ngôn ngữ.

Tôi là Quang Đặng – sinh viên lớp K30-Q, khóa 1996–2000, thuộc giai đoạn đầu tiên của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh – Mỹ, khi khoa mới thành lập chưa lâu sau năm 1993. Dưới mái trường mang bề dày gần bốn thập kỷ, chúng tôi – thế hệ đầu tiên của một khoa mới – vừa kế thừa truyền thống, vừa hân hoan viết tiếp những trang đầu tiên của hành trình khám phá tri thức và tình người.

Giảng đường B4 – nơi lưu giữ những mùa tuổi trẻ đẹp nhất – tuy giản đơn, nhuốm màu thời gian, nhưng với chúng tôi, đó là cả một thế giới. Lớp học nhỏ, bàn ghế gỗ thẳng hàng như dòng kỷ luật thầm lặng, phấn trắng bảng đen in dấu bao bài học đầu đời, và chiếc máy cassette cũ  đơn sơ nhưng đầy quyền năng  là nhịp cầu duy nhất đưa chúng tôi đến với ngôn ngữ toàn cầu. Giữa cái oi ả mùa hè Hà Nội, chiếc quạt trần quay lặng lẽ như xoa dịu nỗi lo thi cử; còn cánh cửa gỗ mỗi lần mở ra, lại vang lên tiếng kẽo kẹt như lời thì thầm đánh thức giấc mơ tiếng Anh của một thời khát vọng.

Giờ đây, giảng đường B4 chỉ còn trong ký ức. Nhưng với những cựu ULISers như chúng tôi, nơi ấy không chỉ là một căn phòng – mà là cột mốc rực rỡ, nơi chúng tôi đã thắp lên hành trình tri thức và niềm tin vào tương lai.

Lớp K30-Q chỉ có gần 30 sinh viên – một con số khiêm tốn nhưng chất chứa đầy sức sống. Khác với xu hướng “nữ áp đảo nam” ở các lớp ngoại ngữ thời bấy giờ, lớp tôi lại đông nam sinh đến mức đủ thành lập một đội bóng riêng, chẳng cần “viện binh” từ lớp khác. Những buổi chiều sau giờ học, chúng tôi cùng nhau ra sân, để tiếng cười nói lấp đầy những khoảng sân đầy nắng.

Tôi vẫn nhớ những “nam thần” của lớp – mỗi người là một sắc màu riêng. Thành Phương – anh bộ đội luôn mang theo mình chiếc mũ lưỡi trai che nắng, che cả ánh nhìn tinh nghịch của các bạn nữ mà lại vô tình… khiến anh càng thêm ngầu. Hiệp Giang – anh chàng quê Lạng Sơn, lớn tuổi hơn, nói chuyện với thầy cô như thể đã thân quen từ lâu. Văn Luyện – dáng vẻ nhẹ nhàng mà nội lực phi thường, vừa học vừa dạy gia sư, cả Anh lẫn Toán, điềm đạm và vững chãi. Quốc Trung – nhỏ người nhưng tài lẻ vô số, từ bình luận bóng đá đến đàn guitar, lại còn rinh về giải Á quân cuộc thi Mr. English Department đầy thuyết phục. Những gương mặt như Doanh, Sâm, Việt Anh… mỗi người một vẻ, một chất riêng, khiến bức tranh thanh xuân thêm đa sắc.

Và các bạn nữ – làm sao có thể không nhắc? Vân Nguyệt – lớp trưởng, tuyển thẳng vì thành tích học sinh giỏi quốc gia, đẹp dịu dàng như một nàng thơ. Phương Thảo – học giỏi, cờ vua cấp quốc gia, chữ đẹp như tranh. Phương Chi – ít nói nhưng sâu sắc, lặng lẽ đem về điểm 9 Triết học khiến cả lớp trầm trồ. Hương Giang và Anh Trà cũng xuất sắc giành điểm 8 ở môn học đầy thử thách này, góp thêm niềm tự hào cho tập thể lớp. Những bóng hồng ấy không chỉ là điểm nhấn trong ký ức lớp học, mà còn là nguồn động lực và cảm hứng cho cả lớp.

Tuổi sinh viên của chúng tôi thật đẹp: miệt mài học tập, hồn nhiên mà đầy lễ nghĩa. Lớp có người mới rời phổ thông, có anh từng đi bộ đội, có khi còn lớn tuổi hơn cô giáo – vậy mà chẳng ai thấy đó là khoảng cách. Trái lại, chính sự tận tâm và gần gũi của thầy cô đã khiến khoảng cách thầy trò trở nên mỏng manh như làn gió nhẹ. Lớp học khi ấy là nơi ươm mầm tri thức, và hơn cả – là nơi gieo vào lòng chúng tôi những giá trị sống tử tế.

Tôi không thể nào quên cô Kim Anh, cô Hồng Vân và cô Thúy – những người đã biến những giáo trình cũ kỹ thành cánh cửa mở ra thế giới. Các cô giảng dạy theo hướng giao tiếp, lấy người học làm trung tâm, khơi dậy trong chúng tôi niềm say mê chưa từng có. Mỗi tiết học đều sinh động, ấm áp như buổi chuyện trò thân tình. Chuông reo mà chẳng ai muốn rời lớp.

Một buổi đặc biệt – chúng tôi được giao lưu với sinh viên quốc tế. Lúc ấy, cô Thúy trẻ trung bỗng hóa thành “rapper” tiếng Anh – giọng nói nhanh, sắc sảo, phát âm chuẩn đến mức cả lớp vỗ tay rào rào. Ánh mắt chúng tôi ánh lên tự hào, vài đứa mắt rưng rưng vì cảm động. Khi ấy, tôi chợt hiểu: có những bài học không đến từ sách vở, mà đến từ trái tim cháy lửa của người thầy, người cô.

Những năm tháng ấy, nghĩ lại vẫn thấy lòng mình xốn xang. Tôi đã từng viết vài câu thơ nhỏ như thế này:

Băng cát-sét cũ gió mưa,
Tai nghe nửa hiểu, sớm trưa vẫn ngồi.
Từng câu tra mãi không thôi,
Đèn khuya le lói vẫn ngời hồn say.
Giờ nghe lại, sống mũi cay,
Một thời tay trắng vẫn đầy ước mơ…

Nhân dịp ULIS tròn 70 năm (1955–2025) và tròn 25 năm kể từ ngày chúng tôi rời trường, tôi xin được gửi lại đôi dòng ký ức.

Để các thế hệ hôm nay hiểu rằng – tình thầy trò, tình bạn và tình trường xưa không bao giờ là quá khứ. Chúng vẫn đang sống – trong từng nhịp tim của những người từng đi qua mùa tuổi trẻ dưới mái trường Đại học Ngoại ngữ thân yêu.

Trân trọng gửi lời tri ân sâu sắc đến quý thầy cô và mái trường.

Quang Đặng, sinh viên lớp K30-Q.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Mái Ấm Quê Mình

CHIẾC XE CHỞ GIÓ TUỔI THƠ